Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Lưu Hướng
cầu hiền 求賢
đgt. <Nho> tìm người hiền. Bài Quyển nhĩ tự trong sách Kinh Thi có đoạn: “bài quyển nhĩ, viết về cái chí của hậu phi, muốn phụ giúp nhà vua tìm được người hiền, xét được quan tốt, biết được nỗi vất vả của bề tôi” (《卷耳》,后妃之志也,又當輔佐君子,求賢審官,知臣下之勤勞). Lưu Hướng trong sách Thuyết Uyển ghi: “Cho nên, bậc minh quân ở trên, cẩn thận ở chuyện chọn lựa kẻ sĩ, chăm chú ở chuyện tìm kiếm người hiền” (故明君在上,慎於擇士,務於求賢). Cầu hiền chí cũ mong cho được, bất nghĩa lòng nào mựa nỡ toan. (Bảo kính 144.3).
cửa ngọc 𬮌玉
dt. dịch chữ ngọc môn 玉門 (cửa cung vua), chữ từ bài Viễn Du phần Cửu thán của Lưu Hướng có câu: “Quay xe trẫm dẫn về tây chừ, vén cờ mống ở cửa ngọc.” (回朕車俾西引兮,褰虹旗於玉門). Song cửa ngọc, vân yên cách, dại lòng đan nhật nguyệt thâu. (Trần tình 40.3).
Giang Phi 江妃 / 江婓
dt. theo thần thoại Trung Quốc, hai nữ thần trên sông giang Hán gọi là Giang Phi. Lưu Hướng 劉向 đời Hán trong truyện Giang Phi nhị nữ sách Liệt Tiên Truyện có câu: “Hai nàng Giang Phi chẳng biết là người ở đâu, dong chơi bên bờ giang Hán, gặp gỡ với trịnh giao phủ, phủ gặp mặt rất là yêu mến, nhưng chẳng biết đấy là thần nhân vậy.” (江妃二女者,不知何所人也,出游於江漢之湄,逢鄭交甫 ,見而悦之,不知其神人也). Hải Nhược chiết nên cành quế tử, Giang Phi chiếm được chước thiềm cung. (Thuỷ trung nguyệt 212.4). Ý nói Giang Phi giành được cho mình được giấc ngủ trong trăng đáy nước. [PL 2012: 291].
Huyền Minh 玄冥
dt. tên thần, thần mùa đông. Sách Lễ Ký thiên Nguyệt lệnh viết: “Vua mùa đông là Chuyên Húc, thần mùa đông là Huyền Minh.” (其帝顓頊 ,其神玄冥). Sở Từ bài Viễn Du của Lưu Hướng có câu: “Đón Chuyên Húc mà bày lời chừ, xét Huyền Minh ở không tang.” (就顓頊而敶詞兮,考玄冥於空桑). Vương dật chua: “Huyền Minh là thần mặt trăng” (玄冥,太陰之神). Lý Bạch trong bài Đại chạp phú có đoạn: “Ấy như: mùa đông thảm thiết, khí lạnh căm căm, chẳng muốn gió về, Huyền Minh ném tuyết.” (若乃嚴冬慘切,寒氣凛冽, 不周來風, 玄冥掌雪). Huyền Minh đồng thời trỏ thần phương bắc. Sách Hán Thư phần Dương Hùng truyện thượng, Nhan Sư Cổ chú dẫn ưng thiệu rằng: “Chuyên Húc, Huyền Minh, đều là thần phương bắc, chủ việc giết chóc.” (顓頊、玄冥,皆北方之神,主殺戮也). Hắc Đế, Huyền Minh đà đổi ấn, sóc phong, bạch tuyết hãy đeo đai. (Trừ tịch 194.3). x. Hắc Đế.
la ỷ lấy đâu chăng lưới thưới 羅綺𥙩兜庄䋥洒
đc. Thuyết Uyển phần Thần thuật (thuật của bề tôi) của Lưu Hướng đời Hán có đoạn: “Tề Uy Vương đi chơi ở dao đài, Thành Hầu Khanh đến tâu việc, ngựa xe theo hầu trang sức lụa là thậm đẹp, vương thấy thế nói với tả hữu rằng: ‘người đang đến kia là ai?’. Tả hữu trả lời rằng: “là Thành Hầu Khanh vậy”. Nhà vua nói: “nước đang rất nghèo khó tại sao phải trang sức hoa lệ thế kia?”. Tả hữu thưa: “Người ban bổng lộc cho người khác thì có quyền yêu cầu người đó. Người nhận bổng lộc của người khác thì phải tận nghĩa vụ với người đó”. Vương muốn hỏi rõ về việc này. Thành Hầu Khanh đến, tâu lên rằng: ‘thần là kị’. Vương không đáp. Lại tâu: ‘thần là kị’. Vương cũng vẫn không đáp. Lại tâu: ‘thần là kị’. Vương rằng: ‘nước nghèo xác, làm sao mà xa hoa thế?’. Thành Hầu Khanh rằng: ‘xin tha thần tội chết để cho thần được nói’. Vua rằng: ‘được’. Thưa rằng: ‘kị tiến cử Điền Cư Tử trị lí tây hà mà (khiến) tần và lương đều suy yếu, kị tiến cử Điền Giải Tử trị lí nam thành, mà người nước sở mang lụa là đến triều bái, kị tiến tiến cử Kiềm Trác Tử trị lí minh châu, mà người nước yên dâng gia súc, người nước triệu dâng lúa thóc; kị tiến cử Điền Chủng Thủ Tử trị lí tức mặc, mà nước Tề an bình; kị tiến cử Bắc Quách Điêu Bột Tử làm chức đại sĩ, mà cửu tộc thêm thân, nhân dân thêm giàu. Thần đã cất cử mấy người giỏi như thế, bệ hạ chỉ việc kê cao gối mà nằm, việc gì phải lo nước nghèo vậy thay!’”. La ỷ lấy đâu chăng lưới thưới, hùng ngư khôn kiếm phải thèm thuồng. (Thuật hứng 68.3). Trong câu này, Nguyễn Trãi đang bàn đến chuyện “tài năng”, đến cái thuật làm tôi. la ỷ lấy đâu chăng lưới thưới, theo nghĩa đen của từng con chữ có thể giải nghĩa như sau: “lụa là lấy đâu ra mà chăng mắc la liệt?” chữ “lấy đâu” là một nghi vấn từ để phủ định, nó đối với chữ “khôn kiếm” ở câu dưới. Ngầm sâu hơn dưới các con chữ là một hàm ý về sự thất sủng. Làm sao có được cái “thần thuật” như của Thành Hầu Khanh? mà dẫu có tài năng như Thành Hầu Khanh đi chăng nữa thì cũng là vô dụng rồi, đã bị vô hiệu hoá rồi. [TT Dương 2011c]. x. hùng ngư.
quyền quyền 拳拳
◎ Phiên khác: cồn cồn: khư khư (BVN), cuồn cuồn (VVK). Nay theo TVG, ĐDA.
tt. <từ cổ> thiết tha, quyến luyến, cố giữ lấy [TVG, 1956: 104]. Lưu Hướng đời Hán trong liệt nữ truyện có câu: “quyến luyến như người thân” (拳拳若親). Sách Trung Dung có đoạn: “anh hồi làm người: một khi đã nắm được cái đạo Trung Dung, nắm được điều thiện thì thiết tha giữ trong lòng mà không có phút nào rời ra” (回之為人也,擇乎中庸,得一善,則拳拳服膺而弗失之矣). Chớ còn chẳng chẳng, chớ quyền quyền, lòng hãy cho bền đạo Khổng môn. (Tự thán 111.1).